Nguyễn Văn Sơ (1896 - 1975) : Nguyễn Văn Sơ sinh năm 1896 tại xã Ninh Duy, thôn Ninh Duy, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An nay là làng Ninh Duy, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Thuở nhỏ, Nguyễn Văn Sơ theo học chữ Hán ở trường làng. Anh siêng năng học tập, thích nghe và tìm đọc những chuyện về các anh hùng trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lớn lên anh được các phe giáp trong xã Ninh Duy bầu làm lý trưởng. Làm lý trưởng nhưng với tính khảng khái, cương trực, Nguyễn Văn Sơ rất căm ghét bọn xích bọn cường hào địa phương, thối nát đục khoét bóc lột dân lành. Vụ mùa năm 1927, thuế ruộng nông dân phải nộp cho nhà nước thực dân 2,3 đồng một mẫu, bọn hào lý lạm thu, bắt nông dân phải đóng 3 đồng một mẫu, số tiền lạm thu đó, chúng chia nhau bỏ túi. Nguyễn Văn Sơ đã vận động nông dân chống nộp thuế, đấu tranh đòi lại số tiền bọn hào lý đã lạm thu.
Thấy Nguyễn Văn Sơ có lòng yêu nước, bênh vực nông dân, chống lại chính quyền phong kiến tay sai ở tổng xã. Đầu năm 1928, Hồ Ngọc Lân, Hoàng Ngọc Trung, Trần Khắc Quảng, cán bộ của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Anh hăng hái tổ chức các hoạt động cách mạng tại địa phương, tổ chức tổ thanh niên cách mạng tại xã Ninh Duy, treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn kỷ niệm tháng 10 Nga (7/11/1929) kêu gọi nông dân chống sưu cao thuế nặng trên địa bàn Tiên Lãng.
Cuối năm 1929, Hồ ngọc Lân, Hoàng Khắc Trung bị địch bắt khi trong túi mạng thẻ do lý trưởng xã Ninh Duy Nguyễn Văn Sơ cung cấp. Được cơ sở báo tin kịp thời, Nguyễn Văm Sơ thoát khỏi vây bắt của địch khi chúng về xã vây bắt anh, không bắt được Nguyễn Văn Sơ, địch tức tối chém trụi cây cối trong xóm, dỡ nhà, cướp của của gia đình anh.
Thoát ly hoạt động bí mật, Nguyễn Văn Sơ lần lượt ở Hải Phòng, Thanh Hà (Hải Dương), Nam Định. Đầu năm 1930 anh được điều về hoạt động bí mật trong liên đoàn kéo
xe tăng tại Hà Nội. Tháng 5/1930 Nguyễn Văn Sơ được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Đầu năm 1931, anh trở về hoạt động bí mật tại liên đoàn công nhân lái xe tay Hải Phòng.
Sáng ngày 24/5/1931, Nguyễn Văn Sơ lại bị địch bắt khi đang kéo xe tay ngay cổng nhà máy Tơ. Địch giở mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn dã man nhưng không khuất phục được anh. Sau đó hội đồng đề hình của Thực dân Pháp tại Hà Nội tuyên phạt anh 15 năm tù giam và đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị trong đó có Nguyễn Văn Sơ. Tháng 8/1936, từ Côn Đảo về Ninh Duy, được sự hướng dẫn của Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), Nguyễn Văn Sơ tích cực tuyên truyền tổ chức phong trào cách mạng địa phương, cuối năm 1936 anh đã lãnh đạo nông dân Kinh Khê đấu tranh đòi thực dân Pháp bồi thường thiệt hại hoa màu, nhà cửa, diện tích đất đai do đào sông Mới đi qua thắng lợi. Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp Guýt xtanh Gôđa sang điều tra tình hình Đông Dương, chấp hành chủ trương của Đảng, Nguyễn Văn Sơ đã tổ chức nông dân viết đơn lấy chữ ký tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và bọn hào lý địa phương. Anh đã thu thập được hàng nghìn chữ ký và 6 đai diện nông dân đi Hải Phòng trực tiếp đưa đơn cho Gôđa. Tháng 9/1937, Nguyễn Văn Sơ lại lãnh đạo cuộc đấu tranh của nông dân Ninh Duy tố cáo bọn hào lý địa phương lạm tu 236 đồng tiến xây nhà thương. Tuần phủ Kiến phải cho điều tra và bắt chánh tổng lý trưởng Ninh Duy. Ngoài ra anh còn tổ chức phát triển các hình thức tổ chức thống nhất để tập hợp quần chúng như: Hội thợ cày, thợ cấy, thơ gặt, hội hiếu, hội hỷ, hội tương tế,,,, ở Tiên Lãng. Cuối năm 1937, thực dân Pháp kết tội Nguyễn Văn Sơ xúi giục nông dân nổi loạnnnn rồi bắt ông lần thứ hai. Không đủ bằng chứng, sau 6 tháng giam cầm, địch buộc phải thả ông.
Năm 1939, chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đổ. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương đã tăng cườngkhủng bố phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Cuối năm 1939, Nguyễn Văn Sơ bị địch bắt lần thứ ba, bị giam cầm ở Hỏa Lò, Bá Vân (Thái Nguyên), Bắc Mê (Hà Giang), Sơn Laaaa Ông luôn giữ vững khí tiết của người cộng sản.
Tháng 11 1943, Nguyễn Văn Sơ ra khỏi nhà tù. Ngay lập tức ông bắt lien lạc với Đảng, tiếp tục hoạt động. Từ đó cho đến tháng 8 1945, ông là người có công lớn trong việc gây dựng, phát triển phong trào Việt Minh, chuẩn bị mọi mặt để cuộc cách mạng tháng Tám 1945 diễn ra thành công tại huyện Tiên Lãng và trực tiếp làm Chủ tịch ủy ban cách mạng lâm thời huyện. Nguyễn Văn Sơ được bầu là đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh Kiến An khóa I.
Những năm 1946 1954 Nguyễn Văn Sơ tích cực tham gia các hoạt động kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược theo sự phân công của Đảng. Những năm tháng cuối đời, Nguyễn Văn Sơ về sống tại quê hương và qua đời năm 1975.
Nguyễn Phú Thập (? - 1950) : Nguyễn Phú Thập còn có tên là Cảnh, Phát, người làng Dưỡng Động nay thuộc xã Minh Tân, Thuỷ Nguyên. Anh được giác ngộ về tham gia cách mạng ở độ tuổi còn rất trẻ.
Vốn thông minh tháo vát cậu được bố mẹ cố gắng cho đi học chữ, học nghề. Năm 16 tuổi Nguyễn Phú Thập học nghề may rồi chụp ảnh, truyền thần. Thời gian học ở Hải Phòng, Hòn Gai anh thường xuyên chứng kiến những cuộc bãi công, biểu tình của thợ thuyền. Nhiều lần anh hoà mình vào đoàn thợ mỏ lấm lem bụi than, giơ cao nắm tay, hô vang khẩu hiệu đòi tự do cơm áo, hoà bình.
Năm 1937, Nguyễn Phú Thập mở hiệu ảnh nhỏ ở chợ Hương (Kiến Thuỵ) vừa chụp ảnh vừa làm nghề truyền thần. Lúc đó một nhóm Hướng Đạo Sinh của học sinh Hải Phòng do Vũ Quý phụ trách đang có những hoạt động ở Kiến Thuỵ. Dựa vào cái vỏ hợp pháp đó Vũ Quí bí mật tuyên truyền cách mạng và Nguyễn Phú Thập được giác ngộ và trở về quê chuẩn bị cho kế sách lâu dài. Thời gian sau, Vũ Quí giới thiệu Bùi Đức Minh cán bộ Xứ uỷ Bắc kỳ. Nguyễn Phú Thập và anh chính thức tham gia vào các hoạt động cách mạng. Anh đi khắp vùng mỏ chắp nối cơ sở, chuyển giao tài liệu của Trung ương của Xứ ủy.
Ở Dưỡng Động, Nguyễn Phú Thập tập hợp một số thanh niên có tinh thần yêu nước, giác ngộ họ và hướng dẫn họ về công tác cách mạng. Năm 1938 anh được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, được giao trách nhiệm xây dựng đường dây liên lạc giữa khu uỷ B, giữa Hải Phòng với vùng mỏ. Nguyễn Phú Thập về Dưỡng Động mở hiệu may, chụp ảnh truyền ảnh nhằm che mắt địch để hoạt động. Anh tập hợp thanh niên tập võ, học kiếm, vận động nhân dân các xóm đấu tranh chống âm mưu chia làng của chính quyền tay sai, vận động nhà giàu giúp đỡ gia đình nghèo đói. Với những vỏ bọc chắc chắn đó, tháng 2/1940, chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập do Nguyễn Phú Thập làm Bí thư. Chi bộ cùng Nguyễn Phú Thập đảm đương công tác giao thông, Động Dưỡng trở thành điểm đầu mối liên lạc hết sức quan trọng. Nhiều cán bộ, tài liệu cách mạng được đưa đến, tiếp nhận qua cơ sở này. Chi bộ Dưỡng Động từng bước mở rộng hoạt động tuyên truyền gây dựng cơ sở sang các vùng Tràng Kênh, Thuỷ Đuờng, Hà Phú. Do có kẻ khai báo, đêm 4 rạng 5/5/1941, mật thám Pháp về Dưỡng Động bắt Nguyễn Phú Thập cùng hai giao thông viên của liên tỉnh B vừa chuyển tài liệu về từ chiều hôm trước. Dù bị kẻ thù tra tấn dã man nhưng Nguyễn Phú Thập vẫn một lòng son sắt, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng của nhân dân. Qua nhiều lần xử án, trong phiên toà ngày 6/11/1943 tại Hà Nội, thực dân Pháp tuyên án phạt Nguyễn Phú Thập 20 năm tù khổ sai, 20 năm tù quản thúc và đày đi Côn Đảo. Trong tù, Nguyễn Phú Thập tích cực đấu tranh, hăng hái công tác say mê học tập, rèn luyện.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành
công, anh được Đảng đón về đất liền. Về Sài Gòn đúng lúc Thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm thành phố thế là Nguyễn Phú Thập không có thời gian trở về quê hương. Anh được giao làm chính trị chỉ đạo viên một đơn vị Cộng hoà vệ binh Nam bộ trực tiếp chiến đấu bảo vệ Sài Gòn. Thời gian sau anh được điều làm Chi đội trưởng chi đội 30 thuộc miền Tây Nam Bộ. Năm 1950 anh hi sinh anh dũng trong mặt trận chiến đấu chống địch càn quét tại huyện Gò Quao, tỉnh Rạch Giá. Tấm gương về lòng yêu nước, về hoạt động cách mạng và chiến đấu hy sinh của Nguyễn Phú Thập vẫn sống mãi trong các thế hệ người Hải Phòng, người Sài Gòn Nam bộ.
Phạm Văn Duyệt (1909 - 1971) : Phạm Văn Duyệt là một trong số ít Đảng viên cộng sản đầu tiên của chi bộ huyện Hải An năm 1930 (nay là An Hải). Tên ông là Duyệt nhưng bà con lối xóm ở Cát Bi quen gọi ông là giáo Duyệt. Ngay từ khi còn theo học tại trường Trung Hành, tranh thủ thời gian rảnh rỗi, ông thường tụ tập bạn bè cùng chí hướng trao đổi những điều mới lạ qua sách báo tiến bộ lưu hành bí mật trong nhà trường, dưới hình thức vui chơi cắm trại ngay tại vườn cây gia đình. Cùng tham gia hoạt động bí mật với ông lúc bấy giờ có ông Phạm Văn Trường (tức Phương) (1), bà Nguyễn Thị Tý (giáo Yến) (2). Phạm Văn Duyệt được kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội ngay từ năm 1927.
Hàng ngày cả nhóm giả làm người câu cáy, hái củi ở khu vực đảo Đình Vũ, đến đêm mới chèo thuyền vào đất liền chở theo tài liệu truyền đơn đến từng cơ sở cách mạng mới gây dựng. Chi bộ cộng sản huyện Hải An lúc đầu mới có 3 người về sau phát triển thêm 4 người nữa là: Phạm Văn Duyệt, Cao Văn Nhiêu, Phạm Công Tiện và Nguyễn Văn Tích. Trên cơ sở phát triển của phong trào cách mạng đang sôi sục, giữa tháng 6 năm 1930 cơ quan chỉ đạo Đảng, tức ban cán sự Hải An được thành lập, gồm có Hoàng Văn Trành (tức Tâm Trành, tức Hoàng Thiết Tâm) làm Bí thư, Phạm Văn Duyệt uỷ viên phụ trách nông hội, Cao Văn Nhiêu phụ trách học sinh, Phạm Công Tiện phụ trách phụ nữ và tiểu thương.
Dưới sự lãnh đạo của Phạm Văn Duyệt, cơ sở cách mạng ở Đình Vũ và huyện Hải An được hình thành, luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cuộc nổi dậy của diêm dân, nhân dân đảo Đình Vũ, đấu tranh chống độc quyền, quản lý sản xuất muối của thực dân Pháp diễn ra ngày 7/9/1930 (15/7 Canh ngọ). Hơn 300 người vai vác đòn càn, câu liêm, dao, gậy, quang gánh rầm rộ diễu hành quanh đảo. Đi đầu là ông Phạm Văn Đích, tay giương cao lá cờ đỏ búa liềm, đi sau là những biểu ngữ đấu tranh Phản đối chống độc quyền muốiiii Chống chế độ quản đoan, chống khủng bốốốố Đả đảo đế quốc Phápppp. Hoảng hốt trước khí thế của dân chúng, chủ Tây cùng đồng bọn tay sai sợ hãi, bỏ chạy về đồn Ninh Tiếp (Cát Hải). Quần chúng xông vào nhà lấy sổ sách, giấy tờ của quản đoan và chủ Tây đem thiêu huỷ hết, sau đó phá cửa nhà kho lấy muối chia cho mọi người. Ngày hôm sau, thực dân Pháp huy động thuyền chở lính ra đàn áp. Bà con diêm dân tập trung lại, kiên trì đòi đối phương giải quyết những yêu sách của dân nêu ra: Để dân được tự do làm việc, giảm bớt thuế muối, chuyển đi nơi khác tên quản đoan khét tiếng gian ác. Tin cuộc đấu tranh của bà con Đình Vũ giành được thắng lợi bước đầu, lan truyền toàn quốc, cổ vũ niềm tin cho quần chúng lao khổ mọi nơi. Báo Tin tức số ra cuối tháng 9 năm 1930, đã kịp thời đưa tin về diễn biến cuộc đấu tranh của nhân dân Đình Vũ ... quần chúng tinh thần rất hăng hái, Đảng viên và nông hội đỏ cũng rất hăng hái. Hoảng sợ về ảnh hưởng của cuộc đấu tranh ở Hải An, dựa vào bộ máy tay sai phản động, thực dân Pháp tập trung đàn áp, lùng bắt cán bộ, phá vỡ một số cơ sở cách mạng tại chỗ, ông Duyệt bị bắt, sau đó đày đi Côn Đảo. Đến thời kỳ Mặt trận bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp, chủ trương ân xá cho tù chính trị ở xứ Đông Dương. Ông Duyệt trở về dạy học trong các làng xã ở Lại Xuân, Doãn Lại (Thuỷ Nguyên) vừa tìm cách bắt mối liên lạc với một tổ chức cách mạng ở đây. Thời gian đầu chưa liên lạc được với Đảng, ông vẫn chủ động tuyên truyền cách mạng thông qua các bài giảng cho học sinh. Khi bắt được mối liên lạc, ông Duyệt đã hăng hái tham gia vào phong trào chung. Từ năm 1942, ông Duyệt cùng một số ngưòi trở về hoạt động, gây dựng cơ sở theo chương trình của Tổng bộ Việt Minh, Hoàng Ngọc Lương, Phạm Văn Duyệt hoạt động ở vùng thượng huyện. Trong lễ ra mắt của chính quyền cách mạng lâm thời huyện Thuỷ Nguyên, gồm 7 thành viên, ông Duyệt là uỷ viên phụ trách tư pháp. Sau đó ông được tổ chức điều động về huyện nhà làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Hải An. Ngày Hải Phòng cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, ông Duyệt cùng các cơ quan dân chính Đảng di chuyển sang mạn Thuỷ Nguyên, tiếp tục nghề dạy học trong vùng cơ quan kháng chiến.
Sau ngày Hải Phòng kháng chiến (13/5/1955) ông Duyệt chuyển sang công tác tại sở giao thông công chính thành phố cho đến trước khi nghỉ hưu. Ông Duyệt mất năm 1971 giữ trọn phẩm chất trung thành với Đảng, dù phải chịu mọi cực hình tra tấn trong lao tù của thực dân, đế quốc, sống giản dị, liêm khiết thật thà, nêu tấm gương sáng cho làng xã quê hương.
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa