Trần Tử Bình (1907-1967) |
Năm 1927 ông quyết định vào Nam Bộ tham gia “Vô sản hoá”, làm công nhân tại đồn điền cao su Phú Riềng nằm trên đất Biên Hoà thuộc công ty Micheline (nay thuộc Bình Phước).Tại đồn điền Phú Riềng ông trờ thành hạt nhân đoàn kết của anh,chị em công nhân trong giai đoạn đấu tranh tự phát.
Gặp lại Bác Tôn, bạn tù Côn Đảo, tại Đại hội Đảng 2 (1951) ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang. |
Cuối 1929 Phạm Văn Phu nhận nhiệm vụ Bí thư chi bộ . Sau gần 3 năm xây dựng phong trào, lực lượng công nhân thống nhất đước sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng cộng sản . Ngày 3-2-1930 dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng ,5000 công nhân đồn điền nhất loạt đình công, đứng dậy đấu tranh đòi giới chủ thực hiện các thoả thuận theo hợp đồng lao động. Trước khí thế của lưc lượng công nhân, giới chủ sợ hãi bỏ nhiệm sở ,chạy về Sài Gòn .Công nhân đã làm chủ đồn điền trong vài ngày. Đây là một trong những phong trào đấu tranh có quy mô lớn đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đãng cộng sản. Sự kiện oanh liệt này làm nên một “Phú Riềng đỏ” trong lịch sử đấu tranh cách mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam.
Thực dân Pháp tiến hành đàn áp cuộc đấu tranh, đồng chí Phạm Văn Phu cùng nhiều đảng viên,quần chúng tích cực bị bắt, ông bị kết án 10 năm khổ sai. Ông bị đầy ra Côn Đào vào cuối 1930. Tại Ô Cấp (Vũng Tầu) trên chuyến tầu thủy đưa tù chính trị ra Côn Đảo , đồng chí Phạm Văn Phu vui mừng gặp lại người giác ngộ mình, người thầy cách mạng đầu tiên là Đảng viên Đảng cộng sản Tống Văn Trân.
Ngô Gia Tự bị mật thám Pháp bắt vào 5-1930. Bị Toà án thực dân Pháp kết án một án tử hình, ba án khổ sai chung thân bị đưa ra giam tại Côn Đảo vào 5-1933. Phạm Văn Phu vui mừng gặp lại Ngô Gia Tự, người chỉ đạo phong trào công nhân Phú Riềng từ 1928, họ cùng nhau phân tích, rút kinh nghiệm cuộc đấu tranh vừa qua , như một bài học thực tiễn cach mạng ,chuẩn bị cho chặng đường đấu tranh cách mạng tiếp theo.
Tại Côn Đảo trong những năm tháng bị tù đày, Phạm Văn Phu có mối quan hệ con người gắn bó với các đảng viên cộng sản như Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự, Tống Văn Trân , Nguyễn Mạnh Hồng, Trần Xuân Độ, Bùi lâm, Trần Văn Mãng ,Nguyễn Văn Thiệt, Phạm Hùng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Búi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giầu, Trần Huy Liệu , Lê Văn Lương , Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị ,Hà Huy Giáp,Lương Khánh Thiện... Trong thời gian bị cầm tù cùng với các tù chính trị cộng sản, Phạm Văn Phu tích cực tham gia xây dựng, hoạt động của tố chức Đảng trong Nhà tù , tích cực tham gia việc “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”. Bản thân Phạm Văn Phu qua các bài giảng triết học, chính trị kinh tế học do các đảng viên cộng sản từng học qua trường Đại học Phương Đông Matxcova như Bùi Công trừng,Bùi Lâm, Dương Bạch Mai lên lớp , qua các giờ lên lớp về văn hóa do Phạm Văn Dồng,Hà Huy Giáp, Trần Huy Liệu, Ngô Gia Tự... lên lớp , qua nỗ lực bản thân trong học tập đã trang bị cho mình một khối lượng rất lớn lý luận cách mạng ,tri thức văn hoá quý báu,chuẩn bị cho chặng đường đấu tranh cách mạng tiếp theo .
Năm 1935 Mặt trận bình dân giành thắng lợi trong bầu cử tại Pháp, điều đó ảnh hưởng đến chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa tại Đông Dương. Chính quyền thực dân buộc phải ân xá một số tù chính trị. Một số tù chính trị Côn Đảo được trả trự do vào 1935 như Phạm Văn Phu , Hoàng Quốc Việt , Lương Khánh Thiện ....Khi về đến Bắc Bộ họ đã liên hệ với nhau, bắt được liên lạc với Tổ chức Đảng, họ cùng nhau bước vào cuộc đấu tranh cách mạng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939. Phạm Văn Phu hoạt động tại Huyện Bình Lục , xây dựng chi bộ Đảng, xây dựng Huyện ủy , là bí thư huyện ủy. Tham gia Tỉnh ủy Hà Nam ,là Bí thư tỉnh ủy.
Năm 1940 nổ ra Khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ khi Thực dân Pháp tiến hành khủng bố trên quy mô lớn, ông bị bắt ,giam tại nhà tù Nam Định , do không đủ chứng cứ nên được trả tư do.
Năm 1941 ông tham gia Xứ Ủy Bắc Kỳ, nhân nhiệm vụ bí thư Liên khu D (Phú Thọ,Vĩnh Yên ,Tuyên Quang) , sau đó Bí thư Liên Khu C ( Hà Nam,Nam Định, Thái Bình , Ninh Bình). Ông bỏ nhiều công sức xây dựng được hệ thống cơ sở cách mạng , kết nạp được nhiều Đảng viên mới tại hai địa bàn này.
Tháng 12-1943 bị Thực dân Pháp bắt ,bị kết án 20 năm khổ sai, giam tại Nhà tù Hoả Lò Hà Nội. Trong tù ông gặp những đảng viên cộng sản như Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lam, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Tất Đắc, Lê Trọng Nghĩa, Nguyển Tuân, Lê Quốc Thân,Nguyễn Thanh Bình ,Phan Vân, Trần Văn Cử,Nguyễn Huy Hoà, Đỗ Mười... Với những kinh nghiệm đã trải qua tại Côn Đảo , ông cùng các đồng chí luôn tích cực thực hiện chủ trương không bỏ phí thời gian trong tù, “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, ông tích cực tham gia xây dựng tổ chức tự quản của tù chính trị , được tín nhiệm là trưởng ban sinh hoạt . Trước khi bị bắt ông tham gia Xứ ủy , ông tham gia phổ biến nghị quyết Thường vụ Trung ương Đảng về nhiệm vụ chuẩn bị giành chính quyền bằng con đường bạo lưc cách mạng khi thời cơ đến , ông cùng các xứ ủy viên như Trần Đăng Ninh , Lê Tất Đắc tổ chức huấn luyện quân sự,công tác tuyên truyên cho tù chính trị.. Cũng như toàn thể tù chính trị ông khát khao tự do , luôn suy nghĩ đến việc vượt ngục khi có thời cơ . Thời cơ quý báu đó đã đến. Tối 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, chiếm toàn cõi Đông Dương. Sau đảo chính Quân Nhật lúng túng trong việc quản lý Nhà tù. Tranh thủ thời cơ , ông tham gia lãnh đạo tổ chức thành công cuôc vượt ngục lịch sử của hơn 100 tù chính trị Nhà tù Hỏa Lò vào các tối 11-3 bằng con đường vượt tường , tối 12-3 bằng con đường chui qua hệ thống cống ngầm của nhà tù thoát ra ngoài.Cùng vượt ngục vào tối 12-3-1945 với ông có tù chính trị Đỗ Muời ,sau này là Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Toàn thể tù chính tri vượt ngục nhanh chóng bắt được liên lạc với Đảng, kịp thời bồ xung cho lực lượng lãnh đạo tại các địa phương chuẩn bị Tổng khởi nghĩa vào 8-1945.
Sau khi vượt ngục , ông bắt được liên lạc với Xứ ủy. Được phân công tham gia Thường vụ Xứ ủy, phụ trách xây dựng chiến khu Quang Trung ( gồm các tỉnh Hoà Bình,NinhBình ,Thanh Hoá. Tháng 7-1945 về cơ quan Thường vụ Xứ ủy , phụ trách các tỉnh Bắc Bộ. Ông cùng Úy viên thường vụ Xứ ủt Nguyễn Khang lãnh đạo Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tại Hà Nội , các tỉnh Bắc Bộ vào sáng 19-8-1945. Ngay tối 19 -8-1945 tại Bắc Bộ phủ , dưới sự lãnh đạo của hai ủy viên Thường vụ Xứ Ủy ,Chính quyền cách mạng lâm thời Bắc Bộ do ông Nguyễn Khang làm chủ tịch được thành lập.Tháng 9-1945 ông Trần tử Bình nhận nhiệm vụ phụ trách Trường Quân chính Việt nam, đào tạo cán bộ quân sự cho quân đội của Nước Việt Nam vừa giành được độc lập. Từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1959 ông phục vụ trong Quân Đội , từng là Phó bí thư Quân ủy,Chính ủy Trường lục quân Việt Nam ,Tổng thanh tra quân đội ,phó Tông thanh tra chính phủ. Tháng 2-1948 sau chiến thắng chiến dịch bào vệ chiến khu Việt Bắc ông là một trong những cán bộ quân đội đầu tiên được phong quân hàm thiếu tướng. Ông là đại biểu Đảng bộ Quân đội dư các Đại hôi Đảng II diển ra tại Tuyên Quang vào 2-1951, Đại hội Đảng III họp tại Hà Nội vào 9-1960.
Tại đại hôi Đảng III ông được tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành trung ương Đảng lao đông Việt Nam. Tháng 3-1959 ông nhận nhiệm vụ làm Đại sứ đặc mệng toàn quyền Việt nam tại Trung Quốc,Mông Cổ. Ông là đại biểu Quôc hội tỉnh Hà Nam khoá II,III.
Ông mất tại Hà Nội vào ngày 12-2-1967 ( ngày 3 Tết) , thọ 60 tuổi.
Là một đảng viên Đảng cộng sàn Việt Nam thời dựng Đảng, ông công hiến toàn bộ sức lực , trí tuệ của mình cho công cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng. Do những đóng góp của ông cho sự nghiệp giải phóng,bảo vệ, xây dựng tổ quốc, Nhà nước truy tặng ông Huân chương Độc lập hạng nhất (1967), Huân chương Hồ Chí Minh (2001),Huân chương sao vàng (2007).
Tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, thành phố Phủ Lý,Thị xã Thủ Dầu Một có các con đường mang tên Trần Tử Bình .
(Tư liệu do hai ông Trần Kháng Chiến, đt 0989510403 e- mail hachientran@gmail.com,
Trần Kiến Quốc đt 0903830939 e-mail kienquoc.tr@gmail.com , các con trai cựu tù chính trị Côn Đảo Trần Tử Bình cung cấp).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét