Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

Các tù chính trị Côn Đảo quê Thái Bình (ST: Đồng Trung Kiên)


Trịnh Tam Tỉnh (1907 - 1992) : Quê l. Vô Ngại, h. Thư Trì, nay thuộc x. Dũng Nghĩa, h. Vũ Thư. Học trường Kỹ nghệ thực hành Hà Nội, hoạt động trong phong trào yêu nước đòi thảPhan Bội Châu và truy điệu Phan Châu Trinh (1925-1926). 1926, vào Hội VNCMTN. 1929, tham gia đoàn ám sát của VNQDĐ. Ngày 15-8-1929, được cử đi ám sát Bùi Tiến Mai ở Thái Bình phản đảng. Do đồng đội là Phạm Huấn sơ ý để súng nổ bị thương, khiến cả toán đều bị bắt trước khi thi hành nhiệm vụ. Ngày 22-10-1929, bị tòa đềhình Hà Nội kết án 10 năm cầm cố, đầy ra Côn Đảo. 1930, được kết nạp vào Đảng CSĐD tại nhà tù Côn Đảo. 1936 ra tù, bị quản thúc tại Thái Bình, vẫn liên hệ được với tổ chức Đảng và hoạt động rất tích cực. 12-1939, lại bị bắt, giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Bắc Mê, Sơn La, Bá Vân. Thoát khỏi nhà tù khi Nhật đảo chính Pháp, đượcĐảng giao nhiệm vụ về vùng Hòn Gai, Móng Cái, Tiên Yên, Ba Chẽ... xây dựng cơ sở Đảng và phong trào cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau Cách mạng tháng 8-1945, được cử làm Chủ tịch UBHC khu đặc biệt Hòn Gai và là đại biểu Quốc hội khóa I t. Quảng Yên. Trong KCCP được cử giữ các trọng trách: Trưởngban dân quân Chiến khu III, Khu ủy viên Khu III (1947-1948); Liên khu ủy viên, Trưởng ban Kinh tế Tài chính Liên khu III (1948-1949); đặc phái viên của Cục Quân giới tại Liên khu III - IV và phụ trách công xưởng hóa chất miền Nam, một cơ sở sản xuất vật liệu chiến lược cho cuộc kháng chiến (1949-1955). Từ 1955, lần lượt được cử giữ các chức vụ: Phụ trách phòng Viện trợ Cục Xây dựng Bộ Công thương; Cục phó Cục Xây dựng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc; ủy viên Đảng đoàn, Cục trưởng Cục Cung ứng vật liệu Bộ Kiến trúc; Viện trưởng Viện Thí nghiệm vật liệu xây dựng; Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật xây dựng Bộ Xây dựng. Nghỉ hưu 1975. Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến (chống Pháp) hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Cai Bộc (1886-1941) : Tên thật là Đặng Huy Tá, người l. Trình Phố (nay thuộc x. An Ninh, h. Tiền Hải), có sức khỏe, võ nghệ hơn người. Theo Đề Kiều chống Pháp, đánh giặc rất dũng cảm, một mình có thể kháng cự với hàng chục lính giặc mà vẫn vượt được vòng vây, được thăng chức Cai đội. Sau làm tướng cận vệ cho Nguyễn Quang Bích, được tin cẩn giao việc liên lạc các vùng Thanh Nghệ để truyền mật lệnh. Sau khi Nguyễn Quang Bích mất, con trưởng là Ngô Quang Đoan lên chiến khu hoạt động, sang Trung Quốc mua vũ khí, đều trông cậy vào sự trợ giúp đắc lực của ông. Sau đó, Cai Bộc còn gả em gái cho  Ngô Quang Đoan. Bà đảm đang mọi việc cho chồng xuất dương sang Tầu, sang Nhật tìm đường cứu nước. Thực dân Pháp bắt được Cai Bộc đầy ra Côn Đảo cùng thủ khoa Nguyễn Quang Hoan. Ông đóng bè vượt Côn Đảo cùng 3 tù nhân khác. Giữa biển sóng lớn bè tan, chỉ còn ông cùng Cử Hoan bơi được vào đất liền. Ông cải tên đổi họ trốn lên vùng Cẩm Khê (Phú Thọ) dạy học và hoạt động chống Pháp.



Đặng Châu Tuệ (1907- 1998) : Quê xóm Nam, l. Bình An, tg Khê Kiều, h. Thư Trì (nay thuộc x. Song An, h. Vũ Thư). Con một gia đình khá giả, thời niên thiếu là học sinh sơ học Pháp Việt ở Thái Bình, sau học trường  Thành Chung (Nam Định), là một trong những người khởi xướng phong trào bãi khóa và tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh ngày 11-3-1926 tại Nam Định. 1930, bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), rồi đầy ra Côn Đảo. Sau 7 năm ở Côn Đảo, 1936 ra tù về quê tiếp tục hoạt động. 7-1936, về h. Vũ Tiên bắt liên lạc với các đồng chí Hồ Sĩ Luyện, Hồ Sĩ Đào (Thuận An), phân công nhau đi gặp lại một số đồng chí trong các chi bộ để truyền đạt chủ trương của cấp trên. Từ đầu 1938, phụ trách nhà đại lý báo của Đảng bộ Nam Định, đầu 1939 được điều động về phụ trách hiệu sách "Phạm Đình Truy" của Đảng bộ Thái Bình thay đồng chí Truy đi công tác khác. 1940, lại bị Pháp bắt giam, báo Đông Pháp ngày 7-7-1940 đưa tin: " Quan Thống sứ Bắc Kỳ ký nghị định để những người tên đăng dưới đây, xét ra nguy hiểm cho cuộc trị an, vào một nơi riêng: Đặng Châu Tuệ, Nguyễn Công Truyền, Trịnh Tam Tỉnh, Nguyễn Duy Phiên, Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Ngọc Tú... quê ở Thái Bình". Sau Cách mạng tháng 8-1945 là Chủ tịch UBHC t. Nam Định, đại biểu Quốc hội khóa I t. Nam Định, đặc phái viên của Chính phủ. Ngày 30-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 237/SLM cử Đặng Châu Tuệ giữ chức Chủ tịch UBKCHC t. Ninh Bình. Sau 1954, là Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao cho đến lúc nghỉ hưu.



Lãnh Hoan (giữa tk. XIX- đầu tk. XX) : Tên thật là Nguyễn Quang Hoan, người l. Quân Bác, x. Vân Trường, p. Kiến Xương (nay thuộc x. Vân Trường, h. Tiền Hải). Ông là cử nhân võ triều Nguyễn, tay dài quá gối, có sức khỏe phi thường, đã từng tay không đánh hổ cứu bạn ở Thanh Sơn Phú Thọ. Ông theo Viên Bổn và Ngô Quang Đàm quyết tử chiến bảo vệ thành Nam Định. Thành mất ông rủ các nghĩa binh như Đinh Quang Nhưỡng, Bùi Như Quảng… lên Hưng Hóa theo Nguyễn Quang Bích chống Pháp. Ông được giao huấn luyện quân sĩ và là tướng cận vệ. Hai lần Nguyễn Quang Bích đi sứ đều có ông hộ tống. Khi Nguyễn Quang Bích mất, ông được phân công ở lại cùng 10 binh sĩ trông coi phần mộ của chủ tướng. Sau 3 năm mãn tang, ông tiếp tục cùng Ngô Quang Đoan chống Pháp, đánh trận Khả Cửu, trận Chợ Bờ Hòa Bình, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí cho nghĩa quân. Sau Pháp bắt được ông cho ném xuống biển làm mồi cho cá, ông bơi mấy ngày đêm vào đất liền, lại tiếp hoạt động chống Pháp tại miền Hưng Yên. Pháp lại bắt được ông, đầy đi Côn Đảo. Bọn cai ngục đánh ông gẫy ba răng cửa, tưởng ông chết già trên đảo, nhưng ông lại đóng bè vượt biển và trở về quê lúc đã ngoài sáu mươi tuổi. Ngay đêm đầu tiên trở về quê, ông  mài dao định đi lấy đầu viên Tri phủ. Cả nhà can ngăn mãi mới thôi. Ngay hôm sau ông sang đền thờ chủ tướng, dập đầu khóc nức nở rồi sau đó cùng Ngô Quang Đoan lên Bàn Long chân núi Tam Đảo lập căn cứ chống Pháp. Nay tên tuổi của Ông được phối thờ tại đền Tiên Động h. Cẩm Khê, t. Phú Thọ.



Lê Mạnh Hiến (? - 1933) : Quê l. Bộ La, h. Vũ Tiên (nay thuộc x. Vũ Ninh, h. Vũ Thư), xuất thân trong một gia đình nho học, là cháu gọi Lê Ngọc Dư bằng chú ruột. 1925, ra Hải Phòng làm thư ký cho hãng dầu xăng Con Sò (Shell). 1927, gia nhập Hội VNCMTN (do Nguyễn Tường Loan, Bí thư Tỉnh bộ Hải Phòng kết nạp). 1929, được chuyển sang ĐCS ngay đợt đầu. Sau đó được điều về công tác ở nhà máy sợi Nam Định, trực tiếp làm công nhân nhà máy này theo chủ trương vô sản hóa của Đảng. 1930, tham gia BCH Tỉnh đảng bộ Nam Định. Ngày 23-10-1930 bị bắt tại Nam Định và bị kết án 10 năm tù khổ sai. 1931 bị đày đi Côn Đảo. 1933 tổ chức kết bè vượt đảo, mất tích.



Lê Ngọc Dư (?-1933) : Xuất thân trong một gia đình nho học ở l. Bộ La, h. Vũ Tiên (nay thuộc x. Vũ Ninh, h. Vũ Thư). Dòng họ Lê Ngọc vào cuối triều Nguyễn có hai  người đỗ Cử nhân là Lê Ngọc Chất (cha Lê Ngọc Dư) và Lê Ngọc Phác. Cả hai đều không ra làm quan với chính quyền thực dân. Lê Ngọc Dư học chữ Hán, sau chuyển sang học trường Pháp Việt. 1925 ra Hải Phòng làm thư ký cho luật sư người Pháp là Larơ (Larres). Luật sư Larơ đã tham gia bào chữa cho nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Chính nhờ làm việc ở văn phòng luật sư mà Lê Ngọc Dư sớm được tiếp xúc với sách báo tài liệu cách mạng ở nước ngoài gửi về lưu trong hồ sơ vụ án các chính trị phạm, trong đó có tài liệu sách báo của Nguyễn ái Quốc khi hoạt động ở Pháp. 1927, được Nguyễn Tường Loan kết nạp vào Hội VNCMTN, 1929 được chuyển sang ĐCS ngay đợt đầu. Sau đó, Đảng điều Lê Ngọc Dư về Nam Định tham gia BCH Tỉnh đảng bộ. Ngày 11-10-1929, bị Tri huyện Mỹ Lộc Đỗ Quý Bình bắt tại cơ quan Tỉnh bộ, bị kết án khổ sai chung thân, giam ở nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội). Trong nhà tù, ngày 22-3-1930, Lê Ngọc Dư đã ám sát hụt tên Nguyễn Tuân (tức Kim Tôn) phản bội khai báo với Tây để cơ sở bị phá, nhiều cán bộ đảng viên bị bắt bớ giết hại. Nhân việc này, tòa án thực dân kết án tử hình, sau giảm xuống khổ sai chung thân. 1931 bị đày đi Côn Đảo, 1933 cùng Lê Mạnh Hiến, Trần Công Thái, Lều Thọ Nam … kết bè vượt đảo. Sau có tin bị vỡ bè chết đuối, lại có tin bị địch đuổi kịp thủ tiêu tất cả số tù trốn.



Lê Toàn Thư (1921- 2001) : Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình (1947-1948). Tên thật là Nguyễn Tất Văn, quê quán x. Bạch Cừ, h. Gia Khánh (nay là h. Hoa Lư), t. Ninh Bình; tham gia cách mạng 1938,  hoạt động trong nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác của học sinh trường Bưởi (Hà Nội), 1940 được kết nạp vào ĐCSĐD. 1942 làm thư ký cho đồng chí Hoàng Văn Thụ, rồi thư ký cho đồng chí Trường Chinh, biên tập viên báo Cứu Quốc Trung ương, trong Ban cán sự Đảng t. Phúc Yên. 1943 bị địch bắt, tù ở Hà Nội, Côn Đảo. Cách mạng tháng 8-1945 được đón về Nam Bộ, làm Trưởng ban Thanh vận t. Hậu Giang, sau làm Bí thư Huyện ủy Trà Ôn (Cần Thơ). 1946 được điều ra Bắc, tham gia Thành ủy Hải Phòng - Kiến An, Phó Chủ tịch UBKC Hải Phòng - Kiến An, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình (7/1947- sau 2/1948), sau đó về Tổng bộ Việt Minh làm thư ký cho đồng chí Hoàng Quốc Việt, rồi lại được điều vào Nam Bộ làm thư ký cho đồng chí Lê Đức Thọ. Từ 1949-1954 là Xứ ủy viên Nam Bộ, Trưởng ban Tổ chức, Trưởng ban Kiểm tra Xứ ủy, cán bộ Trung ương cục miền Nam. Từ 10/1954 - 1960, là Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ, Trưởng ban Tổ chức rồi Trưởng ban Tuyên huấn Xứ ủy. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) được bầu làm ủy viên dự khuyết BCHTƯ Đảng, được phân công làm Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, rồi làm Trưởng đoàn đại diện MTDTGPMNVN tại Cu Ba, Phó trưởng ban Thống nhất Trung ương, Phó trưởng ban Công tác quốc tế nhân dân Trung ương, Phó trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương. Nghỉ hưu 1982. Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương khác.



Lê Tuân (s. 1910) : Tức Vũ Hiền, quê l. Mọc Cự Lộc, nay là ph. Nhân Chính, q. Thanh Xuân, Hà Nội. Là con trai Tổng đôc Lê Hoan,  năm 1927 gia đình cho về l. Luật Trung (Kiến Xương) ở với chị gái là bà Cúc (vợ Tuần phủ Bắc Giang Trần Đình Lượng) và làm quản lý ở xưởng dệt chiếu của Trần Đình Trọng. Năm 1929 được kết nạp vào VNCMTN, được cử làm Bí thư chi bộ Luật Trung gồm 6 hội viên. Đầu năm 1930, Nguyễn Văn Phúc, Bí thư Đảng bộ t. Thái Bình đã trực tiếp kết nạp cả 6 hội viên VNCMTN Luật Trung vào ĐCS và cử Lê Tuân làm Bí thư chi bộ, trực thuộc Đảng bộ t. Thái Bình. Lê Tuân được giao nhiệm vụ in thạch truyền đơn và báo chí của Đảng bộ t. Thái Bình. Tháng 5-1931, bị địch bắt cùng với Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Hữu Tiến (người đầu tiên vẽ cờ đỏ sao vàng). Bị giam ở Hỏa Lò, Sơn La rồi đưa ra Côn Đảo. Năm 1936 được trả lại tự do. Sau Cách mạng tháng 8-1945, công tác ở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, năm 1947 được kết nạp lại vào ĐCSVN, được giao làm Phó Ban Tài chính. 1950 làm thư ký cho Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Tôn Đức Thắng. 1951 chuyển sang phụ trách hành chính của cơ quan Mặt trận. Khi về Thủ đô, làm báo Cứu Quốc đến năm 1974  nghỉ hưu.



Lương Chí (1919-2008) : Quê l. Đông Cao, x. Tây Tiến, h. Tiền Hải. Tham Gia cách mạng năm 1935. Tháng 6-1940, tại hội nghị thành lập Huyện ủy Tiền Hải chính thức, được bầu vào  Ban Huyện ủy, đến 10-1940 được Tỉnh ủy chỉ định làm Bí thư Huyện ủy h. Tiền Hải thay Nguyễn Trung Khuyến lên công tác ở tỉnh. Cuối 1940, được bổ sung vào BCH tỉnh Đảng bộ. Trong lúc đi công tác ở h. Quỳnh Côi, bị mật thám Pháp bắt, đánh đập tra tấn dã man, nhưng không khai báo, bị xử tù 20 năm, giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), rồi đầy ra Côn Đảo. Cách mạng tháng tám 1945 thành công, Trung ương đón về Nam Bộ, phân công về h. Phụng Hiệp, t. Cần Thơ.  Từ đầu 1951 đến giữa 1951 là Quyền Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ; từ giữa 1951 đến 11-1954 là Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ. 1-1955 tập kết ra miền Bắc, là chuyên viên Văn phòng Bộ Công nghiệp, rồi Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ và Lao động tiền lương Bộ Điện lực. Nghỉ hưu năm 1980. Ông là thành viên sáng lập Hội đồng hương Thái Bình tại tp Hồ Chí Minh. Qua đời 3- 2008. Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng hai, Huân chương Quyết thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến (chống Mỹ) hạng nhất, Huy hiệu Thành đồng tổ quốc, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.



Lương Nhưng (1920 - 1948) : Quê l. An Thái, tg Thịnh Quang, nay là x. Lê Lợi, h. Kiến Xương. Nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ, học hết chương trình bậc tiểu học. Lớn lên, ham đọc sách báo tiến bộ và hăng hái tham gia đấu tranh chống tệ tham nhũng, bóc lột của bọn tổng lý, cường hào trong làng. Cuối năm 1938 được kết nạp vào đoàn thanh niên dân chủ. Tháng 8 - 1940 chi bộ tg Thịnh Quang (Kiến Xương) kết nạp Lương Nhưng vào ĐCS. Phong trào chống Pháp, Nhật  ở Thái Bình lúc này rầm rộ phát triển, ở nhiều làng đã có những đội tự vệ, bí mật sắm sửa vũ khí và tập luyện. Lương Nhưng bàn với chi bộ tổ chức ra đội tự vệ vũ trang ở các làng trong tg Thịnh Quang. Đội tự vệ An Thái được cấp ủy điều đi bảo vệ nhiều cuộc mít tinh trong vùng Kiến Xương, Tiền Hải, trong đó có cuộc mít tinh Mả Bụt ngày 12-9-1940 kỷ niệm ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ họp tháng 12-1940, Lương Nhưng được bầu làm Tỉnh ủy viên dự khuyết và sau đó được phân công làm Bí thư Phủ ủy p. Kiến Xương.  Tháng 3-1941, Lương Nhưng bị bắt, kết án 20 năm khổ sai, giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), Khám lớn Sài Gòn, rồi đày ra Côn Đảo vào đầu năm 1943. Sau cách mạng tháng 8 -1945, được đón về đất liền, tham gia Ban thường vụ Tỉnh ủy Châu Đốc (nay thuộc t. An Giang) và hoạt động trong Tổng hội Việt Kiều Khơ Me của Nam Bộ. Ngày 10-10-1948, hy sinh tại biên giới.



Ngô Duy Hưng (1879-1940) : Tức Ngô Văn Hưng, quê l. Đông Cao, nay thuộc x. Tây Tiến, h. Tiền Hải. Là Chánh hội l. Đông Cao, tham gia phong trào văn thân yêu nước ở Tiền Hải. Cuối 1928, cùng với Đầu Vũ Tốn, Ngô Hữu Rượu, Ngô Duy Triệu, Ngô Nguyện, Ngô Ninh được kết nạp vào Hội VNCMTN, do Ngô Duy Phớn làm tổ trưởng. Đến 3-1930, cùng với cả nhóm “Thanh niên” nói trên được kết nạp vào ĐCS, do Ngô Duy Phớn làm Bí thư chi bộ. Trong vụ biểu tình ở Tiền Hải ngày 14-10-1930, gia đình ông 7 người bị bắt: Ngô Duy Phớn (con); Ngô Hữu Rượu (em thứ hai), Ngô Duy Triệu (em thứ ba), Ngô Duy Phơn (em thứ tư); Ngô Nguyện và  Ngô Ngỗi (cháu). Ông bị kết án 10 năm khổ sai, bị đầy ra Côn Đảo. Năm 1936  được ra tù, về địa phương tiếp tục hoạt động. Mất ngày 23-10-1940.



Ngô Duy Phơn (1889 - ?) : Quê l. Đông Cao, nay thuộc x. Tây Tiến, h. Tiền Hải. Là người có học thức, làm Lý trưởng l. Đông Cao. Tham gia Hội VNCMTN năm 1928, đến 1930 được kết nạp vào ĐCS. Bị bắt trong vụ biểu tình ở Tiền Hải ngày 14-10-1930, bị kết án 15 năm tù khổ sai, 20 năm quản thúc; bị đi đầy Côn Đảo cùng với anh cả là Ngô Duy Hưng và 2 cháu là Ngô Duy Phớn, Ngô  Nguyện. Tháng 8-1936 được tha tù, về quê tiếp tục hoạt động, đến 1940 lại bị bắt. Năm 1945 tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương, được cử làm Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời h. Tiền Hải. Trải qua KCCP, KCCM, liên tục công tác đến ngày nghỉ hưu. Được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng hai.



Ngô Duy Phớn (1905-1940) : Quê l. Đông Cao, nay thuộc  x. Tây Tiến, h. Tiền Hải. Là con thứ hai của Ngô Duy Hưng, có học thức. Được Vũ Trọng ở Trình Phố tuyên truyền lý tưởng cách mạng, tháng 5 -1928, được kết nạp vào Hội VNCMTN. Cuối 1929 được kết nạp vào ĐCS, được chỉ định làm Bí thư chi bộ Đông Cao. Trong cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải ngày 14 - 10 -1930, được cử làm trưởng ban  đấu tranh. Sau cuộc biểu tình, bị địch bắt, kết án 10 năm tù, cả hai cha con Ngô Duy Phớn đều bị đày ra Côn Đảo. Tháng 8-1936 được “ân xá” trở về quê, tiếp tục hoạt động. Tháng 6-1937, tại Hội nghị thống nhất ba nhóm lãnh đạo ở ba vùng, được bầu vào BCH tỉnh Đảng bộ, trực tiếp phụ trách h. Tiền Hải. Tháng 8-1939, tham gia  Xứ ủy Bắc Kỳ (theo Bằng Tổ quốc ghi công , Ngô Duy Phớn là “Bí thư Xứ ủy Đảng Cộng sản Đông Dương”. Bí thư Liên Tỉnh ủy C (Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam). Tháng 2-1940, bị địch bắt ở cơ quan in báo Tiến lên của Xứ ủy Bắc Kỳ tại Thọ Vực (Xuân Trường, Nam Định). Địch dụ dỗ, mua chuộc và tra trấn rất dã man, ông nói: “Chúng mày có thể giết được tao, tao chết nhưng đã có trăm ngàn người khác đứng lên đạp đầu chúng mày xuống. Đất nước Việt Nam sẽ là mồ chân chúng mày”. Ông hi sinh ngày 17-3-1940 tại nhà tù Nam Định.



Ngô Nguyện (1900 -1944) : Quê l. Đông Cao, nay thuộc x. Tây Tiến, h. Tiền Hải. Là con cả Ngô Hữu Rượu. Được kết nạp vào Hội VNCMTN cuối năm 1928, đến tháng 3-1930 được kết nạp vào ĐCS. Bị bắt trong vụ biểu tình ở Tiền Hải ngày 14-10-1930. Ngày 5-5-1931, Tòa án đệ nhị cấp Thái Bình kết án 15  năm khổ sai, đầy đi Côn Đảo. Năm 1936 được ra tù,  về địa phương tiếp tục hoạt động, đến 1940 lại bị bắt. Mất ở nhà tù Hà Nội năm 1944.



Nguyễn Danh Đới (1905-1943) : Quê x. Vũ Trung, h. Kiến Xương. Từng học ở trường Thành chung Nam Định. Mùa hè năm 1926, sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng. Cuối năm 1926, về Hà Nội hoạt động trong Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ, rồi được cử làm Bí thư Kỳ bộ, kiêm Bí thư Tỉnh bộ Thanh niên Hà Nội. Tháng 3-1929, bị địch bắt tại quê l. Động Trung, bị xử tù 5 năm, đày ra Côn Đảo. Tại đây, ông được được tiếp súc với các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Giáp, Bùi Lâm. Cuối năm 1932, trở về Thái Bình, tham gia Tỉnh ủy. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Nguyễn Danh Đới tích cực hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Tên ông xuất hiện nhiều trên các tờ báo xuất bản ở Hà Nội và Thái Bình. Trong cuộc vận động bầu cử viện Dân biểu Bắc Kỳ năm 1938, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Văn Năng, Bùi Đăng Chi, Trần Cung... đều ở trong ban lãnh đạo đấu tranh. Tháng 7-1940, Nguyễn Danh Đới lại bị bắt đưa đi căng Bắc Mê (Hà Giang), rồi các nhà lao Phú Thọ, Thái Nguyên. Kẻ thù hèn hạ đã tiêm thuốc độc làm cho ông trở thành phế nhân và chết dần trong lao tù. Con trai thứ hai của ông là Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Trung Kiên, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin.



Nguyễn Hữu Đan (1919-2008): Quê quán l. Dưỡng Thông, nay thuộc x. Thượng Hiền, h. Kiến Xương. Được kết nạp vào ĐCSĐD ngày 9-9-1939 tại chi bộ Đảng l. Dưỡng Thông, hoạt động trong tổ chức Thanh niên phản đế và là đội viên thanh niên xung kích vũ trang bảo vệ các cuộc đấu tranh ở địa phương. Sau được điều lên tỉnh làm công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở ở các xã Lai Vi, Hữu Tiệm thuộc tg Đa Cốc, h. Vũ Tiên. Từ 5-1940 làm giao liên cho Xứ ủy Bắc Kỳ. 1-1941, trong lúc đi lạc ở t. Ninh Bình, bị chỉ điểm, mật thám Pháp bắt đánh đập tra tấn, vẫn giữ được bí mật của Đảng. Bị kết án 20 năm tù khổ sai, giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), Sơn La rồi đầy ra Côn Đảo. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 được đón về đất liền và được giao nhiệm vụ về t. Cần Thơ thành lập đại đội Cộng hòa vệ binh Phan Ngọc Hiển, phụ trách công tác chính trị. Địa bàn hoạt động từ Cần Thơ đến U Minh, vừa đánh giặc, vừa gây dựng phong trào. Sau 3 lần bị thương, 1950 về phòng chính sách Quân khu 9. Năm 1954 tập kết ra miền Bắc, làm Phó phòng Hậu cần Sư đoàn 308, rồi phái viên thanh tra quân đội. Từ 1962 chuyển ngành, làm Cục trưởng Cục Bảo vệ Bộ Giao thông Vận tải, sau chuyển sang K31 Bộ Công an. Sau 1975 vào tp. Hồ Chí Minh làm trợ lý Giám đốc Công an thành phố Mai Chí Thọ. Nghỉ hưu 1980, đã cùng các đồng chí Võ Quang Anh, Lương Chí sáng lập Hội đồng hương Thái Bình tại tp. Hồ Chí Minh. Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng 3, Huân chương Chiến thắng, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đầy, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng ...



Nguyễn Mạnh Hồng : Tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, quê l. Vọng Lỗ (nay thuộc x. An Vũ, h. Quỳnh Phụ). Từ công nhân giác ngộ cách mạng, 1930 được kết nạp vào Đảng Cộng sản, 1931 bị bắt, giam ở Côn Đảo. 1933  được trả tự do, về Thái Bình tham gia Ban tỉnh ủy. 11-1933 lại bị bắt, 1936 ra tù. 1937 - 1938 hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ. Cuối 1939 lại bị bắt, 1944 ra tù, về quê hoạt động. Đầu năm 1945 tham gia Việt Minh, giành chính quyền ở huyện lỵ Phụ Dực. 1946 phụ trách Nông hội tỉnh, 1960 công tác tại Tổng cục Lâm nghiệp.



Nguyễn Thế Long (1908-1950) : Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình (1932), quê  l. Thanh Giám, nay thuộc x. Đông Lâm, h. Tiền Hải, trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Từ khi còn là học sinh trường tiểu học Tiền Hải đã say sưa tìm đọc những cuốn sách lịch sử và văn học nói về các phong trào yêu nước. Năm 1927, học trường tư thục Minh Thành. Từ đây, ông gia nhập Hội VNCMTN. 1928 về quê Thanh Giám gây dựng cơ sở. Cuối 1929 được kết nạp vào ĐCS. Sau đó ít lâu được điều lên công tác ở Xứ ủy Bắc Kỳ. 1930 bị bắt ở Nam Định. 1931 bị kết án khổ sai chung thân. Trong khi bị giam ở nhà lao Hải Phòng, chờ ngày ra Côn Đảo, đã trốn thoát về Thái Bình gây dựng lại Ban Tỉnh ủy. Tháng 2-1932, Ban Tỉnh ủy lâm thời gồm 5 ủy viên được thành lập, Nguyễn Thế Long được cử làm Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 6-1932, bị bắt ở bến đò Cam Châu (h. Thụy Anh),  bị kết án khổ sai chung thân, đưa ra Côn Đảo, được anh em kính phục gọi là “vua vượt ngục” và “Long tàu bay”. Sau 1945, hoạt động ở Nam Bộ. Năm 1950, chết vì bom địch.



Nguyễn Văn Năng (1902 - 1964) : Quê l. Thượng Phú, nay thuc x. Đông Phong, h. Đông Hưng. 1926, đang hc năm th tư trường Thành chung Nam Đnh, ông  cùng mt s bn hc t chc bãi khoá, truy điu và đ tang c Phan Chu Trinh. B đui hc và cm thi, tháng 3 -1926 tr v Thái Bình, được giao nhim v phát trin cơ s Thanh niên và gây qu ng h tài chính cho Tng b Thanh niên. Mùa thu 1927 cùng mt s đng chí lp trường tư thc Minh Thành, có 6 lp, ly ch tp hp qun chúng.

Ngày 2-1-1927, chi b Hi VNCMTN đu tiên vi 11 hi viên được thành lp ti trường, ông được c làm Bí thư. Đu 1928, trường b đóng ca. Tháng 3-1928, tnh b Thanh niên Thái Bình được thành lp, Nguyn Văn Năng được bu làm Bí thư. T 1929 đến 1944, ông b bt nhiu ln, hết đày ra Côn Đo, ri li Sơn La và các nhà tù khác. Sau Cách mng 8-1945, là y viên thường trc UBNDCMLT tnh Thái Bình (1945); đi biu Quc hi khóa I (1946); Phó Ch tch UBKCHC tnh Thái Bình (1946); Hi trưởng Hi Văn hóa Thái Bình (1948); Giám đc S Lao đng Liên Khu III (1949); Thanh tra B Lao đng (1953); V trưởng V bo h lao đng B Lao đng... Mt ngày 26/10/1964. Ngoài công tác cách mng ca đoàn th, ông còn viết báo, làm thơ, viết văn. Bút danh “Thôn Dân” thường xut hin trên các báo Tin tc, Đi nay, Thi thế, Thi báo, Tân xã hi, Bn dân. Ông có 3 tác phm thơ trường thiên: Tết xà lim , Đi Hà Giang , Đi sng nông dân. Thơ ông được tuyn in trong Thơ văn yêu nước và cách mng. Mt ngày 26-10-1964 ti Hà Ni.



Nguyễn Văn Ngọ (1906-1954) : Còn gọi Ba Ngọ. Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình (1949-1950), Chủ tịch UBKCHC tỉnh Thái Bình (1946-1949). Quê l. Hạ Đồng, x. Vĩnh Phong, h. Vĩnh Bảo, tp. Hải Phòng. Gia đình theo đạo Thiên chúa. Năm 19 tuổi học hệ trung học trường Bưởi (Hà Nội). 3-1926, tham gia bãi khóa truy điệu để tang Phan Chu Trinh. 1927 gia nhập nhóm Nam Đồng thư xã rồi trở thành đảng viên VNQDĐ. Cuối 1928 là hội viên VNCMTN. Cuối 1929 gia nhập ĐCS, hoạt động ở Vĩnh Bảo, Kiến An. 3-1930, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ và ngay sau đó về công tác ở Thái Bình và được bầu vào ban Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách thị xã và cả vùng Vũ Tiên, Thư Trì. 10-1930, cùng nhiều đồng chí khác bị địch bắt ở tx. Thái Bình trong đợt hoạt động kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga. 9-1931, tại tòa Thượng thẩm, bị coi là “người trọng yếu”, cùng với Phạm Quang Lịch, Nguyễn Văn Phúc, Quách Đình Thát, Nguyễn Thế Long, Đặng Trần Quý bị kết tội “khuynh đảo chính phủ”, chịu 20 năm khổ sai, mức án nặng nhất, bị đày ra Côn Đảo. Cuôí 1937, được “ân xá”, trở về tiếp tục hoạt động. Cuối 1939, lại bị bắt đi căng Bắc Mê, rồi Bá Vân... Đầu 1945, trốn trại về quê hoạt động trong phong trào Việt Minh. Cách mạng tháng Tám thành công, được cử làm Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời h. Vĩnh Bảo. Từ đầu 1946 đến đầu 1950 được bầu làm Chủ tịch UBHC, UBKCHC tỉnh và Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình. 1949, là Khu ủy viên Liên khu III. Đầu 1950 bị ốm nặng. 6-1950 được đưa sang Trung Quốc điều trị. Mất tại Bắc Kinh ngày 4-6-1954.



Nguyễn Văn Phúc (1903 -1946) : Người l. Trung Nghĩa, nay thuộc x. Liên Minh, h. Vụ Bản, t. Nam Định. Tên khai sinh là Nguyễn Văn Xuân, biệt hiệu Nam Hồng. Học trường Thành Chung (Nam Định). 1927 được kết nạp vào Hội VNCMTN, đầu 1929 làm Bí thư Tỉnh bộ Nam Định. 4-1929, được Kỳ bộ Bắc Kỳ điều lên công tác và tham gia phong trào vô sản hóa ở Hà Nội, trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của ĐDCSĐ. Cuối 1929 đầu 1930, là cán bộ thoát ly, công tác ở Tỉnh ủy Thái Bình  5-1931, bị địch bắt, kết án 20 năm khổ sai, trải  qua các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. 9-1936 được đưa về quản thúc tại quê nhà. Thời gian này, Nguyễn Văn Phúc đã liên lạc với Tỉnh ủy Nam Định, gây dựng chi bộ ĐCS đầu tiên của h. Vụ Bản. 1938, được Đảng cử làm quản trị các tờ báo công khai như Tin tức, Lao động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. 1939, lại bị địch bắt kết án 3 năm tù, đầy đi Sơn La, phát vãng đến các trại Bá Vân (Thái Nguyên), Nghĩa Lộ (Yên Bái). Năm 1945 vượt ngục, tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng và ngày 20-8-1945 tổ chức cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Yên Bái. Được cử làm Bí  thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái. Bị bọn QDĐ phản động sát hại tại nhà tù Yên Bái ngày 6-2-1946.



Nguyễn Văn Vực (1909-1952) : Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình (1937-1940). Quê l. Kênh Son, nay lthuộc x. Minh Hưng, h. Kiến Xương. Đỗ sơ học yếu lược, 1927 thôi học ở tx. Thái Bình trở về quê, được Nguyễn Việt, bạn học cũ giới thiệu vào Hội VNCMTN, 7-1929, được kết nạp vào ĐCS, đã cùng chi bộ Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh ủng hộ công nhân dệt Nam Định (4-1930), vận động nông dân đòi vay thóc cứu đói, tố cáo tội ác của giặc Pháp và bọn tay sai. 3-1931, bị địch bắt và bị quản thúc tại nhà, đã mở trường dạy học để tiếp tục hoạt động. 7-1937, tại hội nghị toàn tỉnh ở Vũ Lăng, được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Từ đó, Thái Bình trở thành tỉnh có phong trào nông thôn mạnh nhất ở Bắc Kỳ. 4-1940, bị địch bắt đưa sang sở mật thám Nam Định, bị kết án 20 năm khổ sai, giam ở Hỏa Lò, Sơn La, rồi Côn Đảo. Cuối 8-1945, được đón về Nam Bộ, 10 - 1945 được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Lâm thời t. Sóc Trăng. Năm 1946, là Bí thư Khu ủy khu 9. Năm 1950 là Trưởng ban Nông vận miền Nam. Mất ngày 25-8-1952.



Nguyễn Văn Xuy (1909 - 1940) : Quê x. Bình An, tg Khê Kiều, h. Thư Trì (nay thuộc x. Hòa Bình, h. Vũ Thư). Tốt nghiệp sơ học yếu lược. Cha mẹ mất sớm. Là học sinh lớn chăm chỉ và có nhận thức tốt, lại được thầy giáo Tống Văn Phổ dìu dắt và kết nạp vào VNCMTN từ 1927. Thường được giao nhiệm vụ liên hệ các mối phong trào ở một số nơi, như sang Đồng Đức cống Vực đến nhà ông Chi, xuống kênh đào Hồng Phong gặp đồng chí Phạm Quang Thẩm, có đợt đến tận các xã ven biển Thần Đầu, Thần Huống (Thái Ninh). 9-1929 được kết nạp vào ĐCS ở chi bộ Bình An. Sau đợt cắm cờ, rải truyền đơn nhân ngày quốc tế lao động 1-5-1930, bị mật thám Pháp bắt, kết án tù 8 năm, đầy ra Côn Đảo. 1936 ra tù, tuy vẫn bị quản thúc tại làng, đồng chí vẫn ngày ngày đi bán muối, kết hợp chắp mối phong trào. 1940 lại bị bắt đưa đi an trí ở Sơn La và mất tại nhà tù.



Phạm Hồng Thám (1902 - 1978) : Quê x. Bách Thuận, h. Vũ Thư. 17 tuổi bỏ học theo chú ra làm phu mỏ tại Cẩm Phả. Bị đuổi việc vì tham gia đấu tranh chống chủ ngược đãi. 8-1920 vào lính, 1921 sang Pháp, 1925 về Việt Nam, là lính khố đỏ thuộc Trung đoàn pháo thủ số 3 Bắc Kỳ, đóng tại tx Bắc Ninh. 9-1928, Bí thư chi bộ Hội VNCMTN lính khố đỏ thành Bắc Ninh (7 người). 8-1929, Bí thư chi bộ ĐDCSĐ trại lính khố đỏ thành Bắc Ninh. 27-1-1930, Pháp bắt kết án 20 năm khổ sai, giam ở Hỏa Lò rồi đày ra Côn Đảo. Từ 1931, liên tiếp 3 lần vượt biển không thành. Đêm 30-4-1935, cùng một số tù chính trị vượt biển trót lọt, về h. Vĩnh Châu (Bạc Liêu) nối lại hoạt động. 1936, chỉ đạo vận động thành lập ủy ban hành động thanh niên dân chủ, Hội phụ nữ giải phóng, Hội đá banh, Hội truyền bá quốc ngữ. 1937, Bí thư Đảng bộ Cà Mau. 7-1937, đại diện Liên Tỉnh ủy Hậu Giang tại ba tỉnh Bạc Liêu, Rạch Giá, Sóc Trăng. 3-1940 bổ sung vào Xứ ủy Nam Kỳ; 7 - 1949, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời t. Sóc Trăng; 8 - 1940, Thường vụ Xứ ủy, phụ trách Ban quân sự kiêm binh vận khu vực Cáp Xanh Jắc (Vũng Tầu), Bà Rịa, Biên Hòa. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), trở về U Minh. Cuối 1942, gây dựng cơ sở Hà Tiên, lập Hội nông dân và Thanh niên phản đế, Chi bộ Thuận Yên, huấn luyện du kích... 1942-1945, Trưởng Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ, ra báo “Độc lập”, in truyền đơn kêu gọi nhân dân chống Nhật, Pháp. Đầu 8 - 1945, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời t. Hà Tiên, lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh. 1946 chỉ huy Vệ quốc đoàn tỉnh, xây dựng công binh xưởng, khu căn cứ U Minh. 1947-1949, chỉ huy tác chiến các mặt trận Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long Xuyên, Cần Thơ, Long Châu Hà. Đặc phái viên Thanh tra quân sự Liên khu Nam Bộ (1951), Giám đốc Sở kho thóc Nam Bộ (1953 - 1954). Sau 1954, bảo vệ đồng chí Lê Duẩn trong thời kỳ hoạt động ở Nam Bộ. 1964, công tác ở Ban tổ chức Khu ủy miền Tây Nam Bộ. 1967 nghỉ điều dưỡng lâu dài. Mất  5 - 8 - 1978 tại Hà Nội.



Phạm Mẫn (1910 - 2009) : Tên khai sinh là Phạm Hoài. Quê th. Nam Huân, x. Đình Phùng, h. Kiến Xương. 9-1929, được kết nạp vào thanh niên Cộng sản đoàn, sau đó trở thành đảng viên ĐCSVN. 12-1929, cùng với Phạm Luận phụ trách cửa hàng tạp hóa ở chợ Lụ (Kiến Xương) là nơi liên lạc của Đảng. Tháng 4-1930, được dự lớp học chính cương, điều lệ Đảng tại nhà thờ họ Phạm, do các Xứ ủy viên, Tỉnh ủy viên trực tiếp huấn luyện. Ngày 17-10-1930, bị địch bắt lần thứ hai, kết án 10 năm khổ sai, giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. Ra tù, đầu 1945 trốn lên Thái Nguyên hoạt động. 1945 - 1948: ủy viên UBHC, UBKCHC t. Thái Nguyên. 1949, ủy viên UBKCHC t. Bắc Cạn, Bí thư Đảng đoàn chính quyền. 1950 - 1952: Huyện ủy viên, Chủ tịch UBKCHC h. Phụ Dực (Thái Bình). 1953, Sở trưởng Sở Thuế t. Thái Bình. 1954 - 1956: Thư ký vụ ủy ban tiếp quản khu vực 300 ngày tại Hải Phòng. 1957, Chủ nhiệm Công ty Bách hóa bông vải sợi Hải Phòng. 1965, Hiệu phó trường trung học Nông nghiệp Hải Phòng. 1970, Hiệu phó trường trung học Kinh tế Hải Phòng. Nghỉ hưu 1976. Mất ngày 26-3-2009. Huân chương Độc lập hạng ba, 1 Huân chương Kháng chiến hạng nhất, 1 Huân chương Kháng chiến hạng nhì. Huy hiệu 40 năm, 50 năm, 60 năm tuổi Đảng.



Phạm Quốc Sắc (1918-1991) : Quê th. Phương Trch, x. Phương Công, h. Tin Hi. Tham gia hot đng cách mng t đu năm 1945 ti Sài Gòn, là trưởng đoàn Thanh niên Tin phong ga xe la Sài Gòn. Sau Cách mng tháng Tám, công tác trong ngành quân báo ti Sài Gòn - Ch Ln, b đch bt giam t 4-1946 đến 12-1947 ti bót Catina và Khám ln Sài Gòn. Sau khi ra tù, tiếp tc công tác trong ngành quân báo, tháng 7-1948 được kết np vào ĐCSVN, tháng 8-1954, được c làm  Phó Ban binh vn Tnh y Ch Ln. Cui 1955, b đch bt, giam ti các nhà tù Ch Ln, Ty Đc cnh min Đông, Trung tâm ci hun Tân Hip (Biên Hòa), đến tháng 1-1957 b đy ra nhà tù Côn Đo đt đu tiên cùng vi 360 tù chính tr, m đu cho vic thc hin chế đ nhà tù ca M và chế đ Sài Gòn, trong đó trng tâm là bc ép, khut phc tư tưởng chính tr bng nhng th đon khng b tinh thn hết sc khng khiếp kèm vi nhng trn đòn đánh đp tàn khc. Cuc đu tranh chng ly khai ca hàng ngàn tù chính tr Côn Đo đã din ra quyết lit, hàng trăm chiến sĩ  cách mng đã hy sinh trong giai đon này. Đến cui tháng 8-1961, lc lượng chng ly khai cng sn Chung Cp ch còn li 7 người: Lưu Chí Hiếu, Cao Văn Ngc, Trn Trung Tín, Hoàng Sơn, Phan Trng Bình, Nguyến Đc Thun và Phm Quc Sc, đã vn toàn khí tiết, toàn thng tr v. Tháng 7-1964, nhà thu khoán Mai Hng Quế trong dinh Đc Lp (cơ s ca Đng) bo lãnh ra tù và đưa ra căn c an toàn.  T 7-1965 là y viên Ban t chc kiêm y viên y ban Kim tra Đng khu Trung Nam B (Khu 8). Trong thi gian thi hành Hip đnh Pari, ông công tác ti Tiu ban trao tr nhân viên quân s và dân s trong Ban Liên hip quân s 4 bên và 2 bên Tân Sơn Nht. Sau 30-4-1975, công tác ti Ban T chc Trung ương cc, ph trách công tác tiếp nhn h sơ công an tình báo, chiêu hi và nhà tù M ngy. T 6-1976, là Phó V trưởng V Bo v Đng Ban T chc Trung ương, thường trc Tiu ban Bo v Đng Trung ương. Ngh hưu 3-1979 ti tp. H Chí Minh. Được tng thưởng: Huân chương Kháng chiến chng Pháp hng nht, Huân chương Kháng chiến chng M hng nht, Huân chương Đc lp hng hai,...



Phạm Thuần (1905-1999) : Quê th. Nam Huân, x. Đình Phùng, h. Kiến Xương. Tham gia cách mạng từ 2-1927, Bí thư chi bộ VNCMTN liên xã Nam Huân-Thịnh Quang, kiêm phái viên liên lạc của Tỉnh bộ. Tháng 9-1929 được chuyển thành đảng viên ĐCS. Bị bắt trong cuộc đấu tranh vay thóc cứu đói đầu năm 1930, bị phạt 8 tháng tù giam, ở tù được 2 tháng thì trốn được, đi thoát ly làm ở cơ quan ấn loát của Tỉnh ủy Thái Bình. Tháng 4-1931, cùng Lê Tuân đi họp xứ, cả hai đều bị bắt ở Hà Nội trong vụ Nghiêm Thượng Biền phản bội, bị kết án 10 năm tù khổ sai và 20 năm quản thúc, giam ở các nhà tù Hà Nội, Côn Đảo. Tháng 8-1937 được ra tù, về địa phương tiếp tục hoạt động. Tháng 2-1945, đội trưởng tự vệ xã. Tháng 8-1945, được cử làm Chủ tịch ủy ban cách mạng lâm thời x. Nam Huân.  Năm 1946 làm Phó Giám đốc nhà máy đúc tiền Thái Nguyên. Từ 1947, công tác ở t. Phú Thọ: Huyện ủy viên, rồi Bí thư Huyện ủy Phù Ninh (1947-1948); Bí thư Nông hội tỉnh (1949); Bí thư Huyện ủy Đoan Hùng (1950); Huyện ủy viên h. Thanh Thủy (1951); Tỉnh ủy viên, Trưởng ty Công an (1952-1956); ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách sửa sai (1956); Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBHC tỉnh (1956-1961); ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBHC tỉnh (1961-1963); ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy (1963-1967); Chủ tịch UBMTTQ t. Phú Thọ (1967-1975). Nghỉ hưu từ 3-1975. Được thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất. Huy hiệu 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70 năm tuổi Đảng. Con trai ông là Phạm Phú Thái, Trung tướng, Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng.



Quách Đình Thát (1911-1938) : Chiến sĩ cách mạng tiền bối. Quê l. Phúc Khê Tiền, tg Phúc Khê (nay là th. Phúc Tiền, x. Thái Phúc, h. Thái Thụy). Là học sinh trường Minh Thành, được kết nạp vào Hội VNCMTN từ 1927. Tại Đại hội đại biểu VNCMTN t. Thái Bình tháng 3-1928, được bầu vào Ban Tỉnh bộ “Thanh niên” gồm 7 người. Cuối tháng 6-1929, Đảng bộ ĐDCSĐ Thái Bình được thành lập, Quách Đình Thát là Tỉnh ủy viên. Tháng 11-1929, hai tổ Đảng Phúc Khê và Thuyền Quan sáp nhập thành một chi bộ, gồm Quách Đình Thát, Tăng Văn Thiều, Hà Ngọc Thiến, Nguyễn Văn Tố và Phạm Hùng, do Quách Đình Thát làm Bí thư. Chi bộ ghép Phúc Khê - Thuyền Quan là chi bộ Đảng đầu tiên ở vùng Thái Ninh - Thụy Anh. Đầu năm 1930, kết nạp thêm Tăng Văn Yêm và Nguyễn Duy Đèo đều là người cùng làng với Quách Đình Thát, Tăng Văn Thiều. Sau khi chủ trương đấu tranh vay thóc cứu đói của Tỉnh ủy Thái Bình được phổ biến, chi bộ Phúc Khê - Thuyền Quan đã tổ chức cuộc đấu tranh vay thóc nhà Bá Chất vào ngày 12-4-1930. Kế hoạch bị lộ, Bá Chất biết trước sự việc sẽ diễn ra, đã chuẩn bị lực lượng đề phòng và cho người đi báo với Tri phủ Thái Ninh. Cuộc đấu tranh diễn ra gay go quyết liệt. Đảng viên và những quần chúng trung kiên bị bắt 10 người, trong đó có Quách Đình Thát và Tăng Văn Thiều. Quách Đình Thát bị phạt tù 8 tháng. Sau cuộc biểu tình Duyên Hà - Tiên Hưng ngày 1-5-1930 và cuộc biểu tình ở Tiền Hải ngày 14-10-1930, tòa án Đệ nhị cấp Thái Bình và tòa Thượng thẩm đã buộc các chiến sĩ cách mạng Thái Bình vào tội  “Âm mưu khuynh đảo chính phủ”, “làm rối trị an” và kết án 20 năm khổ sai đối với Quách Đình Thát, Nguyễn Văn Ngọ, Phạm Quang Lịch, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Thế Long, Đặng Trần Quý, Vũ Tiến Lữ  tức Hai (những người bị kết án nặng nhất trong “Vụ Cộng sản ở Thái Bình”). Quách Đình Thát bị giam ở Thái Bình, Hỏa Lò (Hà Nội), rồi bị đày ra Côn Đảo và đã hy sinh anh dũng tại nhà tù Côn Đảo năm 1938.



Tăng Văn Thiều  (1910 - 1942) : Chiến sĩ cách mạng tiền bối. Quê th. Phúc Tiền, x. Thái Phúc, h. Thái Thụy. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cha mẹ mất sớm. Tháng 1-1928, được kết nạp vào Hội VNCMTN. Năm 1929, được kết nạp vào ĐCS. Năm 1930, tham gia cuộc đấu tranh đòi bọn nhà giầu phải cho nông dân vay thóc cứu đói, bị bắt giam 4 tháng. Đầu 1932, là Tỉnh ủy viên lâm thời. Tháng 1-1932, được bầu vào BCH tỉnh Đảng bộ lâm thời. Cùng năm, do Phạm Văn Nam (Tỉnh ủy viên) phản bội, các đồng chí trong Tỉnh ủy lâm thời: Nguyễn Thế Long (Bí thư), Lương Phôi, Vũ Văn Vịnh và Tăng Văn Thiều đều bị bắt. Tăng Văn Thiều bị  giam ở Hỏa Lò, Sơn La và 1934 bị đầy ra Côn Đảo. Năm 1936 được trả lại tự do, trở về địa phương tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ. Cuối 1939, bị bắt lần thứ 3 và bị giam ở nhà nhà lao Nam Định, Thái Bình. Ngày 4-9-1941, ông vượt ngục. Nhưng do hậu qủa của những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, sức khỏe của ông bị sa sút nghiêm trọng. Cuối năm 1941, ông dự lớp huấn luyện do Xứ ủy Bắc Kỳ mở ở Xuân Trường (Nam Định). Lần này, bệnh lao của ông mỗi ngày một nặng thêm. Đầu mùa hè 1942, biết không qua khỏi, ông đã lên sở mật thám Thái Bình và chết ở đó để khỏi liên lụy đến cơ sở.



Tô Thúc Rịch (1900 - 1980) : Quê l. Thư  Điền, nay thuộc x. Tây Giang, h. Tiền Hải. Đảng viên ĐCSVN. 6-1930 được Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình Nguyễn Văn Phúc trực tiếp giao nhiệm vụ giết Tổng đốc Vi Văn Định. Kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo, nhưng bất ngờ bị cảnh sát khám xét trong người có súng và bản án xử tội Vi Văn Định. Sau gần 5 tháng bị tra tấn ở Sở Mật thám Nam Định, thực dân Pháp đưa về tòa án Thái Bình, kết án khổ sai chung thân. Đầu 7-1931, bị đầy ra Côn Đảo. 1934, phụ trách trung tâm liên lạc của Hội tù và Đảng bộ Côn Đảo. Liên tục tham gia các cuộc đấu tranh, từng bị nhốt hầm biệt giam, bị  đẩy xuống hầm xay lúa (khi đồng chí Tôn Đức Thắng và Tô Chấn đang làm cặp rằng phụ ở đây). Nhiều lần tổ chức đóng thuyền vượt đảo không thành, 1936 đã trốn được về đến t. Bà Rịa, lại bị bắt đưa ra Côn Đảo, bị án 2 năm cầm cố hầm. Cuối 1939, tham gia cuộc tuyệt thực đòi bãi bỏ chế độ trị an, đòi có đèn, được đọc sách, được viết thư, đòi bỏ cùm… kéo dài 8 ngày buộc bọn cai ngục phải nhượng bộ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, được cử tham gia Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo cùng với các đại biểu cộng sản khác là Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Duẩn, Võ Sĩ, Vũ Thúc Đồng, Phan Trọng Tuệ… và được cử phụ trách Ban tổ chức Tuần lễ vàng ở Côn Đảo, thu được số tiền 2000 đồng.  Sau 10 năm ở Côn Đảo và sau 4 năm cầm cố hầm (nhà tù của nhà tù Côn Đảo), ngày 23-9-1945, Đảng và Chính phủ đón về đất liền, được bố trí  ở lại Nam Bộ tham gia kháng chiến. Sau 1954, ra miền Bắc làm Chánh Văn phòng Bộ Y tế. Mất ngày 4-12-1980 tại Hà Nội. Con trai Tô Thúc Rịch là Tô Thiếp (tức Tô Việt Hùng, Điểu) là Tỉnh ủy viên Thái Bình (1942).



Trần Cung (1898-1995) : Tên thật là Nguyễn Ngọc Cư,  Quê th. Năng An, x. Vũ Hội, h. Vũ Thư. Tháng 2-1928 tham gia Hội VNCMTN, là một trong số 9 hội viên đầu tiên của xã. Tháng 8-1929, cùng hai đồng chí khác được chọn kết nạp vào ĐCS khi Đảng chưa hợp nhất, lập thành chi bộ đầu tiên của Vũ Tiên - Thư Trì. 1929 -1930 là Xứ ủy viên Bắc Kỳ, hoạt động ở Hải Phòng. Bị Pháp bắt ngày 3 -5-1932, kết án 20 năm tù, trải qua các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. 7-1936, khi Mặt trận Bình dân Pháp nắm chính quyền, được ra tù trở về hoạt động trong Mặt trận dân chủ, là phóng viên các báo Thực nghiệp , Tin tức , Nhành lúa , Bạn dân .  Tháng 9-1938 bị thực dân Pháp bắt tù lần thứ hai về tội làm báo, viết báo chống chế độ. Cuối 1940 lại bị bắt đi căng Bắc Mê (Hà Giang). 4-1944 ra tù, cùng các đồng chí Nguyễn Bình, Nguyễn Hải Thanh lập Chiến khu Đông Triều. Sau 1945, làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương. 1946 là  Xứ ủy viên phụ trách ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. 1947-3/1948 là ủy viên Khu XII và Khu X. 4/1948 - 8/1949: ủy viên Ban Kiểm tra trung ương và ủy viên Ban Thi đua toàn quốc. 9/1949 -10/1956: ủy viên Đảng đoàn UBTƯMTTQVN. 11/1956-10/1958: Thường vụ Khu ủy, Phó Chủ tịch UBHC khu Tả Ngạn. 11/1958 - 8/1959: ủy viên Đảng đoàn, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 9/1959 - 5/1962: ủy viên Đảng đoàn, Vụ trưởng vụ Lãnh sự bộ Ngoại giao, Phó Tổng thư ký Hội hữu nghị Việt - Trung. Từ tháng 6 -1962: ủy viên ủy ban thẩm phán, Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC. 1971 nghỉ hưu. Mất ngày 9-10-1995,  an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.  Huân chương: Hồ Chí Minh, Độc lập hạng nhất, Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất …



Trần Đức Thịnh (tức Quảng, 1901-1971) : Bí thư Ban Tỉnh ủy lâm thời t. Thái Bình (1931). Quê x. Vũ Lăng, h. Tiền Hải. Đỗ Sơ học yếu lược. Năm 24 tuổi, do bị thúc ép của gia đình, ra làm lý trưởng x. Vũ Lăng, sau 3 năm phải từ chức. Được tiếp xúc với những tờ báo tiến bộ, ông cùng với hai người em là Thử, Duyên đã tham gia hội Tương tế. Tháng 4-1930, cả ba anh em đều được kết nạp Đảng CSĐD. Tháng 4-1931, làm Bí thư Phủ ủy Kiến Xương. Tháng 8-1931, tại cuộc họp của tỉnh ở Cồn Đen (Tiền Hải), Ban Tỉnh ủy lâm thời gồm 5 người được thành lập. Trần Đức Thịnh làm Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 12-1931 bị bắt, giam ở nhà tù Thái Bình, Nam Định; kết án 20 năm tù khổ sai, 20 năm quản thúc, hết đày đi Sơn La, lại Côn Đảo. Ngày 14-7-1936, ra khỏi nhà tù Côn Đảo, lại trở về Thái Bình tiếp tục hoạt động. Cuối 1937, tham gia Tỉnh ủy (do Nguyễn Vực làm Bí thư), với cương vị ủy viên Thường vụ. Tháng 10-1939, bị bắt đày lên Sơn La lần thứ 2. Năm 1943, về quê hoạt động. Năm 1944, Xứ ủy viên Bắc Kỳ. Sau 1945, công tác ở Tổng bộ Việt Minh, là ủy viên Thường vụ Mặt trận Việt Minh - Liên Việt. Từ 1952, Trưởng ban Thanh tra Chính phủ, Trưởng ban kiểm tra Trung ương Đảng. Nghỉ hưu năm 1968.





Võ Quang Anh (s. 1920) : Tên thật là Đặng Ngọc Trác, quê quán l. Trình Phố, nay thuộc x. An Ninh, h. Tiền Hải. Được kết nạp vào ĐCSĐD năm 1939, bị  Pháp bắt đầy ra Côn Đảo năm 1941. Tháng 8-1945 được cách mạng đón về Cần Thơ và phân công ở lại Miền Nam chiến đấu, là Phó Tư lệnh Quân khu 9. Sau 1954 tập kết ra Miền Bắc, công tác ở ủy ban Kế hoạch nhà nước. Sau 1975, nghỉ hưu ở tp. Hồ Chí Minh, đã cùng các ông Lương Chí, Nguyễn Hữu Đan cán bộ cách mạng cùng tù ở Côn Đảo về, đứng ra vận động thành lập Hội đồng hương Thái Bình tại tp. Hồ Chí Minh.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét